Hình ảnh logo Dongoi
DONGOI

Cơ hội và thách thức khi sử dụng Fintech trong tài chính vi mô để xây dựng một hệ thống tài chính bền vững (Phần 2)

Mặc dù có nhiều cơ hội cho các TCTCVM Việt Nam để phát triển sản phẩm và dịch vụ của họ bằng cách áp dụng công nghệ Fintech, nhưng điều này cũng đi đôi với nhiều thách thức gây rào cản cho quá trình triển khai thực tiễn. Trong bài này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về điều đó!

I. Thách thức về hành lang pháp lý

Đối với các sản phẩm Fintech nói chung và các dịch vụ tài chính kỹ thuật số nói riêng, trong những năm gần đây, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đã chủ động tiếp cận vấn đề này thông qua các cuộc hội đàm và đối thoại với các doanh nghiệp Fintech nhằm giải quyết các vấn đề và tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty tham gia thị trường.

Mặc dù các giải pháp đã được nghiên cứu và triển khai nhanh chóng, nhưng các quy định pháp luật vẫn chưa kịp cập nhật và điều chỉnh. Ngay cả các ngân hàng thương mại cũng gặp phải nhiều khó khăn khi triển khai các giải pháp Fintech do hành lang pháp lý chưa có sẵn chế tài cho các ứng dụng công nghệ như Blockchain hoặc xác thực khách hàng từ xa

II. Thách thức về hệ thống dữ liệu cá nhân tập trung chưa phổ cập

Hiện nay, tại Việt Nam, thông tin dữ liệu cá nhân đã được quản lý thông qua chip điện tử trên căn cước công dân, đây là một bước đi quan trọng của chính phủ nhằm quản lý dữ liệu tập trung trong kho dữ liệu quốc gia. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế khi mọi thứ đang trong quá trình phát triển và toàn bộ dữ liệu của cư dân vẫn phụ thuộc vào việc cá nhân tự báo cáo tại các cơ quan chức năng. Việc cập nhật đầy đủ dữ liệu của toàn dân Việt Nam vào kho dữ liệu quốc gia sẽ mất một thời gian khá dài. Ngoài ra, khuôn khổ quy định pháp lý hiện tại không cho phép tổ chức hoặc cá nhân được quyền truy cập và sử dụng thông tin từ kho dữ liệu công dân này.

III. Thách thức về đời sống và trình độ tiếp cận thông tin của bà con nông dân vùng sâu vùng xa

Hiện nay, mức sống của người dân tại các khu vực này vẫn chênh lệch rất nhiều so với người dân ở thành thị.

Cụ thể, lực lượng lao động ở vùng nông thôn và miền núi có tỷ lệ người không biết chữ hoặc chưa tốt nghiệp tiểu học khá cao, chiếm 18,26% tổng số lực lượng lao động vào năm 2010. Trong khi đó, ở thành thị, tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ tương đương chỉ chiếm 7,65%. Đồng thời, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động trên toàn quốc cũng không cao, với tỷ lệ lao động chưa được đào tạo vào năm 2018 chiếm khoảng 77,1%, có nghĩa là chỉ có khoảng 22,9% lực lượng lao động trên 15 tuổi đã qua đào tạo.

Từ đó, chúng ta thấy mức độ thu nhập của đối tượng này vẫn khá thấp, và khoảng cách về trình độ tiếp cận thông tin vẫn còn nhiều hạn chế, làm cho việc tiếp thu các công nghệ cao cấp sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Hình ảnh bài viết

IV. Thách thức về thói quen tiêu dùng, hành vi thanh toán và sử dụng dịch vụ tài chính khác biệt

Mô hình chợ truyền thống từ lâu đã gắn bó với cư dân ở những vùng này. Họ thường không cần sử dụng dịch vụ thanh toán điện tử hay ngân hàng vì mức chi tiêu của họ thấp, và nhu cầu sinh hoạt hàng ngày vẫn chủ yếu dựa vào việc sử dụng tiền mặt. Đối với ngành tín dụng, tâm lý người dân còn khá e dè khi phải vay mượn từ các tổ chức tài chính vi mô vì quy trình thủ tục hồ sơ khá phức tạp, đặc biệt là với trình độ nhận thức của họ, điều này gây ra sự khó hiểu.

Theo số liệu từ Điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình nông thôn Việt Nam – VARHS năm 2015, chỉ có khoảng 37% số hộ nông dân đã vay vốn từ các ngân hàng, trong khi 63% số hộ còn lại vẫn phải vay từ các nguồn phi chính thức như họ hàng, bạn bè, hoặc thậm chí là tín dụng đen. Thậm chí trong lĩnh vực bảo hiểm, do điều kiện kinh tế khó khăn, người dân ở các vùng này cũng chưa thực sự hiểu và quan tâm đến các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp (BHNN), với tâm lý "tại sao tôi phải trả phí bảo hiểm khi tổn thất rủi ro chưa chắc đã xảy ra." Cũng theo thống kê từ Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm trực thuộc Bộ Tài chính, năm 2016 cả nước ta chỉ có khoảng 304.017 hộ nông dân và tổ chức sản xuất nông nghiệp đã tham gia BHNN, con số này còn quá ít ỏi so với tổng 11 triệu hộ gia đình làm nông trên khắp cả nước.

Nền văn minh nông nghiệp đất nước Việt Nam chúng ta đã tồn tại hàng nghìn năm nay, tạo nên một khối đại đoàn kết tổng thể vững chắc khó mà lung lay. Thế nên để có thể thay đổi hành vi thói quen bà con nông dân trong việc sử dụng công nghệ cao là cả một quá trình đòi hỏi sự kiên nhẫn, lâu dài nhằm nhắm đến một đất nước Việt Nam phồn vinh hưng thịnh.